Thứ Hai, 7 tháng 7, 2014

Quảng Nam hay cãi (3)

Bài 3: Cãi như... đặc sản


Người Quảng khác người cả trong... chuyện chơi.
Rắn Mừng Xuân Quý Tỵ, TP làm từ đá và cây gỗ nguyên bản (không chế tác)
TP Lê Thạnh
Ít có tính cách nào riết róng, thâm thúy, bực mà thương, cười mà giận... đến mức thành "đặc sản" của một tính cách như chuyện cãi cọ của người Quảng Nam. Nhưng nó cũng là tiền đề đầu tiên của cải cách, tiền phong: "Cãi để luôn luôn đổi mới và phát triển"...

Nói về tính cách hay cãi của người Quảng Nam có lẽ không ai có những nhận định sâu sắc như nhà văn Nguyễn Văn Xuân. Ông được xem là nhà Quảng Nam Học với rất nhiều nghiên cứu khảo sát, tinh tường thú vị đến… sợ! Cuộc đời với bao biến thiên thăng trầm của ông ít nhiều cũng là âm ba của một nhân cách ngay thẳng âm thầm, hoặc cương trực đấu tranh trực tiếp hay gián tiếp về  lẽ phải của sự cãi.
Tôi được biết nhà văn, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân qua cha tôi. Ông là một nhân cách lớn. Hay cụ thể, một nhân cách Quảng. Mọi nghiên cứu về Quảng Nam mà không "bước qua" những gì Nguyễn Văn Xuân đã viết, đã để lại là... vô giá trị!.

Khi nhà văn còn sống, một lần khi từ Sài Gòn trở về, tôi cùng với các nhà thơ Huỳnh Lê Nhật Tấn, nhà nhiếp ảnh Mỹ Dũng... đến thăm ông. Sau đó câu chuyện vui quá, ông rủ cả bọn tôi cùng ông sang thắp hương ở nhà thờ cụ Phan trên đường Phan Châu Trinh - Quận Hải Châu - Đà Nẵng. Ở đây, tôi được gặp cả bà Lê Thị Kinh (từ nhà nghiên cứu Phan Thị Minh), cháu cụ Phan, hiện đang ở ngôi nhà Từ đường này. Bà đã có nhiều công trình nghiên cứu về Chí sĩ Phan Châu Trinh, một nhà cách mạng, một người Quảng Nam cự phách với nhiều tư liệu mới bà sưu tập được từ các nguồn, các thư viện nước ngoài khi còn công tác ngoại giao tại Pháp và tư liệu gia đình. 
 
Bộ sách có nhiều sử liệu quý về cụ Phan Châu Trinh,
một tính cách độc đáo của người Quảng Nam
 Vì thế đây là những tác phẩm rất có giá trị để bạn đọc nào muốn tham khảo về tính cách và Đất và Người Quảng Nam.  
Sau khi thắp hương ở nhà thờ cụ Phan Châu Trinh về, chúng tôi đã có một cuộc nói chuyện rất vui với nhà văn ở một quán cà phê cóc trên đường Thái Phiên. Tôi có hỏi ông rằng, có câu phương ngôn "Quảng Nam hay cãi" và đã có rất nhiều câu chuyện thú vị minh họa cho tính cách cãi đó. Nhưng theo ông, ông nhớ câu chuyện nào nhất? Một câu chuyện có thể đại diện "giống y xì"  tính cách cãi của người Quảng Nam" - Cãi là cái tật của người Quảng Nam- Ông cười tủm tỉm, rồi nói:- Đã là tật thì có nhiều chuyện và chuyện nào cũng hay. Làm răng có một chuyện hay nhứt được?". Nhưng rồi  ông đã kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện như sau:
"Chuyện ni thì tôi cũng chỉ nghe kể lại thôi. Và cũng đã từng viết trong sách. Ngày trước, cách đây dưới vài thế kỷ, một ông khách tha phương đi qua một ngôi nhà vùng Đồng Nai Bến Nghé Nam Bộ. Khách khát nước, nhân thấy người chủ đi đi lại lại trong nhà liền vào xin nước uống. Gia chủ đon đả, lịch sự mời ngồi rồi đi lấy trà mời khách, nhưng không giấu được vẻ lo âu cực độ.
Nhà vắng, chỉ có từ buồng gần đấy phát ra những tiếng rên rỉ liên hồi và thỉnh thoảng cũng liên hồi có tiếng giục giã của một cái miệng đàn bà mà khách biết ngay là của bà mụ “Rặn, rặn, rặn nữa!...”.
 
Nhà văn Nguyễn Văn Xuân (phải) và nhà văn Đà Linh (đã mất)
đang nghiên cứu một thư tịch cũ 
 
 Khách nhìn chủ nhà trên ba mươi tuổi, ân cần hỏi:
-Bà nhà?
-Phải, nhà tôi!
-Thưa anh, bao lâu rồi?
Chủ nhà lắc đầu một cách ngao ngán:
-Ba ngày!
Khách sửng sốt:
-Ba ngày? Ở cử ba ngày mà chưa sinh?
-Tôi rất lo lắng. Suốt ba ngày, bà mụ cứ giục giã, nhà tôi cố gắng đến muốn kiệt sức rồi!...
-Anh là người Quảng Nam?
-Phải, quê tôi ở phủ Điện Bàn.
Khách cười, nói to như nói với ai:
-Tôi biết rồi! Tôi có đi qua Điện Bàn. Phủ ấy giáp giới Trung Quốc…
-Anh nói quái lạ! Sao lại có Điện Bàn ở giáp Trung Quốc? Phủ Điện Bàn ở tỉnh Quảng Nam, giáp giới với Kinh đô Huế mà…
-Tôi lạ gì nữa! Nước Huế ở sát Thăng Long!...
-Anh lại nói kỳ quá! Thăng Long ở Bắc, Huế ở Trung. Mà sao lại gọi kinh đô là nước Huế?.
Hai người đàn ông nói chuyện quên sản phụ đang rên, bà mụ đang giục, cứ to giọng cãi nhau một cách hăng hái làm mấy con thằn lằn trên vách phải nhớn nhác bỏ chạy tứ tán. Đột nhiên, từ buồng phát ra một âm thanh lạ như có khối nước bị ứ vừa được tháo ra, ồ ồ lên một tiếng rồi tắt ngay.
Người khách phát một tiếng cười, đổi thái độ cãi sang thái độ thân thiện, nắm chặt hai tay chủ nhà rồi rít: “Mừng anh, mừng anh”. Cùng lúc tiếng bà mụ the thé phát ra từ buồng: “Sanh rồi! Con trai!...”.
Khách ôn tồn nói với chủ:
“-Anh biết không? Thằng con anh lì lắm! Nhưng nó là thằng nhỏ xứ Quảng Nam nên tôi phải dùng mẹo dụ nó! Nó đâu có chịu nằm yên khi nghe chúng mình cãi nhau tay đôi. Phải không anh?”.
 ***
Câu chuyện của nhà văn Nguyễn Văn Xuân quả là quá đặc sắc, quá độc đáo. Cãi như là món đặc sản!. Như Bò cầu mống, mì Quảng! Như cãi! Những đặc sản không thể không nhớ tới, không nói tới khi  luận về tính cách “rin” Quảng Nam. Mà nói là “Quảng Namrin” nghe! Chớ còn “Quảng pha”, Quảng cồn” thì cái đặc sản đó cũng nhạt đi, kém đi rất nhiều! Như một người bạn tôi nhận xét: “Nếu uống với dân Quảng Nam thiếu cãi thì quá là buồn…”.
Và tôi đã nhận ra: Ít có tính cách nào riết róng, thâm thúy, bực mà thương, cười mà giận... đến mức thành "đặc sản" của một tính cách như chuyện cãi cọ của người Quảng Nam. Như nó cũng là tiền đề đầu tiên của đổi mới, cải cách, tiền phong: "Cãi để không bao giờ bị tồn đọng, ngục tù. Cãi để luôn đi tới và phát triển"... 
Vì tôi cũng là một đứa con sinh ra và lớn lên tại Quảng Nam, Đà Nẵng. Để một lần, chứng kiến tôi hùng hồn quá, một người bạn tôi dè dặt hỏi: "Cãi không mệt sao?".
Sao không nhỉ? Mệt phờ!...
Vậy mệt phờ tại sao cứ cãi?,,,
(Còn tiếp)

Quảng Nam hay cãi (2)

Bài 2: Mở miệng ra là cãi

 Trần Cao Vân lập thuyết Trung thiên dịch, cãi nhau về thiên – địa – nhân. Phan Khôi viết Việt ngữ nghiên cứu tranh cãi về ngôn ngữ tiếng Việt. Phan Chu Trinh cãi lại các nhà cứu nước cũ bằng tư tưởng duy tân… Đó là một trong số ít những người Quảng Nam hay cãi lừng lẫy vĩ đại đã đi vào lịch sử.


Quảng Namhay cãi là một chủ đề rộng lớn, chưa ai có một công trình nghiên cứu toàn diện giải mã phương ngữ Quảng Nam, tính cách Quảng Namdưới góc nhìn nhân học.
Chúng tôi chỉ đề cập đến cái cách “mở miệng ra là cãi” của người Quảng Nam trong giao tiếp hàng ngày.
Câu hỏi thể nghi vấn luôn luôn thường trực khi người Quảng mở miệng ra bằng những phương ngữ đặc trưng như bài thơ của Phan Khôi từng viết:
Làm sao cũng chẳng làm sao
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao
Thiên nhiên hùng vĩ có làm nên tính cách con người Đất Quảng?
Ảnh: LT cùng nhà thư pháp Hồ Công Khanh trong chuyến tìm đá ở đầu nguồn Mò - O , Đại Sơn, Đại Lộc - tháng 02/2009.
Cái chi? Cây chi? Con Chi? Làm chi? Răng rứa? Mô? Mà răng?... là những câu trả lời trước một vấn đề được đặt ra trong đối thoại cho tới khi vấn đề sáng tỏ thì người Quảng mới chịu kết thúc bằng “Rứa hỉ!”.
Không bao giờ bằng lòng với một câu khẳng định, dù đó là sự thật, nên trong cuộc sống hàng ngày có lẽ người Quảng hay cãi “moi” được nhiều thông tin nhất.
Có thể chia người Quảng hay cãi thành hai loại là “Người Quảng hoài nghi” và “Người Quảng hàm hồ”.

Cách moi thông tin đơn giản như trường hợp A. gặp B. thông báo:
- Bữa qua con bò của thằng T. chết!
Ngay sau khi tiếp nhận thông tin, nếu B. là người Quảng hoài nghi sẽ cãi theo các tình huống sau:
- Răng mi biết?
- Làm chi có chuyện nớ!
Trong trường hợp B. là người Quảng hàm hồ sẽ diễn ra ngay tình huống tấn công người đối thoại theo hướng áp đặt:
- Mi ăn cái chi mà nói tào lao. Mi có thấy không mà nói?
Thông tin sẽ được dẫn dắt vòng vo cho tới lúc cả A. và B. cùng xác định được con bò của thằng T. chết thật hay chỉ là dạng tin đồn.
Người Quảng hàm hồ chính là một dạng ngụy biện, nhưng suy cho cùng dù là hoài nghi hay hàm hồ, chuyện hay cãi của người Quảng có một sức cuốn hút đầy quyến rũ.
Ngụy biện dưới cái nhìn của Aristotle là phi logic và nhiều nhà triết học khác sau Aristotle đã có rất nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu về ngụy biện.
Một người Quảng hàm hồ luôn hiểu biết về ngụy biện, chủ động phòng thủ cũng như tấn công đối phương và giành chiến thắng trong sự tức tối lộn ngược của người thua cuộc.
Ngụy biện trong tranh cãi của người Quảng là xấu hay tốt? Trên thực tế, người Quảng không dùng phương pháp ngụy biện mang tính ác ý hay có dụng ý xấu mà thực chất chỉ để mua vui. Cãi xong thì “hòa cả làng”, đối phương thua cuộc cũng chỉ châm biếm người chiến thắng là những người “cãi dóng”.
Mỗi làng, mỗi vùng ở xứ Quảng ngày xưa đều có những người hay cãi nổi tiếng như ông Hương Dước, ông Xã Tiên hay danh sĩ Tú Quỳ được cộng đồng yêu mến.
Tính hay cãi của người Quảng phản ánh hết sức đặc sắc trong loại hình văn nghệ đối đáp hò khoan hết sức thông minh và thú vị ở xứ này. Cãi nhau bằng vần điệu, ứng tác kịp thời là niềm say mê một thời của người Quảng.
Hình thức đối đáp dưới dạng câu đố giữa nam và nữ như những ví dụ dưới đây thực chất là những cuộc cãi nhau bằng vần điệu, độc địa nhưng thú vị với mục đích chính là chọc ghẹo mua vui.
Nữ: Nhón chưn kêu quớ chú đi đàng
      Của em nẻ dọc chú có hàn được không?
Nam: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định cho chí Sài Gòn
         Ai ai khéo đẻ cái con
        Của em có nẻ dọc cũng còn phụ huynh
Hoặc:
Nam: Đố cô cái chi trong yếm cô tề
         Hay là mả mẹ chôn kề mả cha?
Nữ: Thường chàng mới nhớ tới ông gia
      Tạc cái mả mẹ lẫn mả cha bên chàng
….
“Trường phái” hay cãi theo kiểu người Quảng hàm hồ ngụy biện là trường phái mua vui. Ngày nay, bạn có thể đi tới bất cứ làng quê nào ở Quảng Namhay tham dự một bữa đám giỗ trong gia đình người Quảng sẽ chứng kiến ngay người Quảng hay cãi như thế nào...
Minh Sơn


Quảng Nam hay cãi

Bài 1: Quảng Nam hay cãi, do đâu?

 

Đã có nhiều giả định về nguyên nhân nguồn gốc của tập quán nầy. Phần lớn các giả định tỏ ra không mấy thiện cảm, có thiên hướng tiêu cực về tính hay cãi nầy. Thậm chí có người cho rằng dân vùng Quảng Nam tính tình hung hãn hung hăng, nóng nảy nên hay cự cãi.

TP Bonsai ngược ( Inversely bonsai / Upside down bonsai ), do Lê Thạnh thực hiện, một hướng đi mới cho nghệ thuật bonsai đang chờ sự đón nhận của giới bonsai-cây cảnh. Liệu "chất cãi" của người Quảng Nam có là tác nhân chính cho một lối làm cây ... ngược đời, hổng giống ai như thế này ?
Người viết bài nầy mạo muội đưa ra giả định cho rằng tính hay cãi của người Quảng Nam có liên quan đến hoàn cảnh, vị trí địa lý của đất Quảng Nam. Đó là mối liên quan giữa đất và người. Điều nầy dễ nhận ra ở đất và cây. Tùy theo thổ nhưỡng thổ ngơi mà cây ra trái lại có vị khác nhau. Quýt ở Giang Nam vốn ngọt nhưng nếu bứng đem trồng ở Giang Bắc thì "có giỏi tay trồng cũng hóa chua" (thơ Hoàng Lộc).

Phong tục, tập quán của người dân Quảng Namgắn liền với phong cảnh, phong thổ, thổ nhưỡng, thổ ngơi của đất Quảng Nam. Quảng Nam có những con sông lớn như Cẩm Lệ, Thu Bồn... bồi đắp phù sa màu mỡ cho những nương dâu, ruộng lúa phì nhiêu tươi tốt. Sông sâu, nước trong, núi non hùng vĩ đã hun đúc nên con người Quảng Namcó tư chất thâm trầm, nói năng bộc trực, tính tình thẳng thắn, thật thà chất phác.


Tâm thế  tranh cãi để sinh tồn

Điều kiện thiên nhiên quá ư nghiệt ngã, đầy bất trắc đã tạo nên người Quảng Nam có thói quen chịu đựng, nhẫn nại, chuyên cần, chăm chỉ và luôn có tâm thế đấu tranh để sinh tồn. Người Quảng Namkhông dễ dàng tiếp thu ý kiến của người khác là vì sống trong bất trắc, quen hoài nghi cảnh giác nên phải tranh luận cho ra lẽ rồi mới đồng thuận.
Vì rẻo đất chiến lược, với đèo Hải Vân là tuyến phòng ngự rất khó vượt qua, hai bên Việt – Chiêm cãi qua, cãi lại, giằng co nhau quyết liệt nhiều năm trời. Ảnh: Vũ Công Điền

Phải chăng có tranh cãi mới sáng tỏ vấn đề. Có lật ngược vấn đề để tranh luận thì mới có cái nhìn toàn diện, khách quan. Nếu tranh luận không cần thiết thì sẽ không có phản biện và ngày nay người ta không cần đến luật sư. Nhiều người nghĩ rằng tính hay cãi là do tính bướng bỉnh, sân si, nóng nảy. Nhưng thiết nghĩ tranh cãi khác với cự cãi, cãi bướng cãi bừa... Chính nhờ không dễ dàng chấp nhận những lề thói cổ hủ, những luật lệ bất công trói buộc nên người Quảng Nam thường tiên phong trong các phong trào như phong trào Duy Tân, phong trào chống thuế ở Đại Lộc, phong trào cắt tóc ngắn, mặc Âu phục (do cụ Phan Chu Trinh xướng xuất); phong trào thơ mới (cụ Phan Khôi ),...

Đặc biệt trong cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang Phục Hội do vua Duy Tân làm Chủ Súy, trong ủy ban khởi nghĩa có nhiều người Quảng Nam giữ cương vị chủ chốt như Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Thành Tài, Lê Ngung, Nguyễn Súy, Lê Cơ, Lê Đình Dương... Việc bại lộ, vua Duy Tân bị Pháp đưa đi đày, Thái Phiên và ba đồng chí bị hành quyết. Để ghi nhớ người anh hùng dân tộc thành phố Đà Nẵng đã một thời mang tên Thái Phiên.

Có người cho rằng "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm" là cách nói thậm xưng nói quá... nhưng thật ra chẳng quá chút nào vì người Quảng Nam rất nhạy bén, rất ưu thời mẫn thế. Thật vậy, thường những người làm cách mạng thuộc loại cá thể đột biến, không theo lẽ thường tình.

Cãi… thuộc bản sắc 

"Bất cứ tộc người nào buông lỏng sự giữ gìn bản sắc của mình đều sẽ bị tiêu vong".
Trong cuốn "Có 500 năm như thế" của nhà khảo cứu Hồ Trung Tú có chương mục lý giải khá thú vị về tính hay cãi của người Quảng Nam. Theo tác giả thì trong suốt 500 năm người Chăm và người Việt sống cạnh nhau, xen kẽ nhau, làng này cách làng kia một cánh đồng, một con bàu, thậm chí một con đường. Có lúc có nơi họ tôn trọng hòa hiếu nhau, nhưng bao giờ cũng giữ bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình. Từ đó xảy ra sự xung đột do sự dị biệt giữa hai nền văn hóa như chế độ phụ hệ, mẫu hệ; như tín ngưỡng của người Việt là Trời Phật, của người Chăm là SiVa, Visnu. Đó là nguyên nhân của tính hay cãi.
Hồ Trung Tú rất có lý khi cho rằng: "Bất cứ tộc người nào buông lỏng sự giữ gìn bản sắc của mình đều sẽ bị tiêu vong". Đây là một khẳng định, một lời cảnh báo có giá trị như một quy luật lịch sử mà các nhà làm văn hóa cần quan tâm. Hồ Trung Tú càng có lý khi cho rằng cãi nhau để khẳng định mình, cố trung thành với niềm tin của mình, bất luận đúng sai không chỉ là tính bảo thủ mà còn là sự sống còn của bản sắc văn hóa. Ông gần như xác quyết: "Phải chăng chính nhờ thế mà họ đã bảo lưu được bản sắc văn hóa của mình suốt 500 năm". Đã là bản sắc văn hóa dân tộc thì không có vấn đề hơn kém, đúng sai, tốt xấu. Giá trị của ai là của người ấy. 
 
Tác phẩm của Hồ Trung Tú
 
Cũng từ thế kỷ thứ 16 trở đi Dinh Trấn Quảng Nam đóng một vai trò quan trọng trong việc giao lưu với các nước phương Tây. Giáo sĩ Dusomi rồi giáo sĩ Alexandre de Rhodes đến Trấn Quảng Nam để truyền giáo. Điều đáng lưu ý là Alexandre de Rhodes cùng với các thức giả Việt Nam soạn từ điển Việt - Bồ - La; từ đó manh nha hình thành chữ Quốc ngữ. Từ Trung Hoa, hòa thượng Thích Đại Sán rồi học giả Chu Thoại Thủy đã đến Việt Nam và lưu trú dài ngày ở Hội An (Quảng Nam) để thăm thú trước tác. Điều đáng lưu ý là trong "Hải ngoại ký sự" của hòa thượng Thích Đại Sán có mô tả và xác nhận hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam.

Những sự kiện kể trên chứng tỏ người dân Quảng Nam đón những luồng gió mới với thái độ dè dặt cần phải tranh cãi phản biện trước khi tiếp nhận. Ngoài ra Quảng Nam còn là nơi giao điểm, giao lưu của hai nền văn minh lớn: văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ. Hai nền văn minh nầy du nhập vào Việt nam từ thế kỷ thứ 3 sau công nguyên bằng hai con đường: đường thủy từ Ấn Độ, Miến Điện, Tích Lan  và đường bộ từ Trung Hoa sang. Người Việt và cả người Chăm đứng trước một sự lựa chon: phải chọn một bỏ một hay dung nạp cả hai trong ý thức phản biện thường trực, tranh luận gay gắt  để cuối cùng dung thông, thâu hóa cả hai.

Còn giọng nói của người Quảng Namcó hơi thô mộc cứng và nặng (có lẽ vì pha giọng của người Chăm) khiến  người nghe có cảm giác đang bị cự cãi. Ngoài ra, ngôn ngữ của người Quảng Nam có tính cách "ăn sóng, nói gió" có lẽ vì đất Quảng Namở đầu sóng ngọn gió  chăng? Người Quảng Nam ăn cục nói hòn, nghĩ sao nói vậy, thẳng như ruột ngựa... ấy là do tánh quyết liệt, mạnh mẽ, bộc trực...

Tóm lại, tính hay cãi của người Quảng Namphải chăng phát nguyên từ hoàn cảnh vị trí địa lý của cộng đồng dân cư có ảnh hưởng đến tâm lý con người xứ Quảng. Tâm lý phòng ngừa bất trắc trong môi trường thiên nhiên khắc nghiệt; tâm lý hồ nghi dè chừng những luồng gió mới từ bốn phương thổi tới; tâm lý quyết liệt mạnh mẽ, căng thẳng khi phải đương đầu với thiên tai thủy ách và các thế lực ngoại xâm. Nhưng có một điều không thể phủ nhận là đất Quảng Namđã sản sinh ra nhiều danh sĩ danh nhân, anh hùng, chí sĩ có công lớn trong việc dựng nước và giữ nước.  

Phạm Đạt Nhân
(Nguồn: Một Thế Giới)

Xem thêm:
Quảng Nam hay cãi (2): Mở miệng ra là cãi