Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2007

Cổ Mai Hoa ở Đại Lộc.

Phóng sự:
Cổ Mai Hoa ở Đại Lộc.
(Bài gốc, trước khi được  báo Công an Nhân dân duyệt đăng)

Ngày nay, khi mức sống của người dân ngày càng cao, áp lực từ mặt trái của lối sống công nghiệp ngày càng chi phối nghiệt ngã thì người ta hướng về những thú vui tao nhã của dân tộc một thời  vang bóng. Đó là các bộ môn nghệ thuật của sự đam mê và lòng nhẫn nại, như non bộ, tiểu cảnh, thư pháp, cây cảnh cổ v.v... Trong các đối tượng của nghệ thuật cây cảnh, cây mai cổ tự lúc nào đã nghiễm nhiên trở thành một linh vật đối với con người Việt Nam xưa và nay.
Điều ít ai biết, ở Đại Lộc, nghệ thuật Cổ Mai Hoa đến nay phát triển gần như đã trở thành “đạo”...



Mai Hoa biểu tượng cho mùa Xuân, cho quy luật đất trời và khí tiết người Anh hùng...
Tất cả những ai quan tâm đến cây hoa mai và thú chơi cây mai cổ hẳn không thể không biết hai câu thơ nỗi tiếng của Chu Thần Cao Bá Quát (1809-1855):
Thập tải luân giao cầu Cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái Mai hoa”
Người anh hùng có mười năm giao du trong thiên hạ để cầu thanh gươm cổ cùng một đời chỉ biết cúi lạy hoa mai! Ta sẽ thấm thía hơn cái triết lý nhân sinh sâu sắc chuyển tải trong 2 câu thơ nỗi tiếng của Cao Bá Quát nếu như ta đặt nó trong ngữ cảnh của cuộc đời kỳ lạ của ông, cuộc đời của một người Anh hùng không hề biết nễ sợ một ai, trong một giai đoạn lịch sử rất đặc biệt của các thời đại cuối cùng  nhà Nguyễn. Khi không còn tin vào Triều thần, Người Anh hùng  trong ông có 10 năm đi “cầu cổ kiếm”, như kiếm tìm một kế sách để cứu dân, cứu nước. Và ông đã tự đặt 10 năm đó vào thế cảnh của một đời chỉ biết “bái mai hoa”!
Nhưng đó mới chỉ là câu chuyện của Chu Thần Cao Bá Quát! Lịch sử dân tộc ta cũng ghi nhận rất nhiều bậc tiền bối, anh hùng cũng từng không tiếc lời ngợi ca, tôn thờ những giá trị thâm hậu mà cây hoa mai mang lại. Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820): “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”, xem mai hoa như một biếu tượng của đạo đức và khí tiết.
Còn Mãn Giác Thiền sư (1052-1096) thì:
“...Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”
Ở đây sức sống mãnh liệt của hoa mai được đẩy lên đến độ cao trào. Ta cứ thử tưởng tượng chỉ sau một đêm, trước thềm bỗng xuất hiện - không chỉ một bông hoa, vài bông hoa - mà là một cành mai nhất loạt vàng bông rực rỡ, như một sự thăng hoa tuyệt diệu, sự chuyển hoá biến đổi của đất trời ...
Thế mới biết Mai Hoa không chỉ là biểu hiện của mùa xuân, của quy luật đất trời mà còn là biểu tượng cho khí tiết bất diệt của người Anh hùng.

Cổ Mai Hoa ở Đại Lộc...
Trong những năm trước, khi đất nước chuyển mình Đổi Mới, người dân Đại Lộc vốn nghèo trên vùng đất bị chiến tranh tàn phá ác liệt đã phải tìm kiếm cho mình những cách làm ăn mới. Từng nỗi lên rất nhiều tấm gương vượt khó, nhiều nông dân sản xuất giỏi... Trong đó, cây hoa mai từng là một trong những đối tượng sản xuất, kinh doanh mang lại hiệu quả cao mà cách đây vài năm trên báo Thanh niên từng có phóng sự khá hay về cây hồng diệp mai ở Ái Mỹ (Đại Lộc). Tuy nhiên, ngày nay cây mai ở Đại Lộc không chỉ được biết đến như một loại cây “xoá đói giảm nghèo”, “nuôi con ăn học” mà sau nhiều năm say mê nghiên cứu, sưu tầm, gầy dựng, một số “môn đồ” của thú chơi cây mai cổ ở Đại Lộc đã tạo nên một chỗ đứng đầy ấn tượng trong giới chơi cây cảnh cổ, không chỉ bó hẹp trong phạm vi địa phương. Cổ Mai Hoa đã nhanh chóng trở thành “bái vật” của không ít nghệ nhân ở Đại Lộc. Trong mắt của giới sinh vật cảnh, vùng quê Đại Lộc lại được biết đến như một vùng đất của cây mai cổ.
Theo số liệu chưa đầy đủ, hiện nay có đến khoảng vài chục người ở Đại Lộc chuyên tâm sưu tầm và chơi cây mai cổ, trong số đó không ít người đạt đến trình độ thượng thừa. Không chỉ nắm vững các kỹ thuật chăm sóc, tạo dáng, tạo giống, uốn sửa... cho cây mà qua thú chơi đó, họ còn tạo nên những sức cuốn hút kỳ lạ, làm thổi bùng ngọn lữa đam mê và tình yêu Cổ Mai Hoa trong rất nhiều người. Có người không kể gì đến nợ cơm - áo - gạo - tiền mà thẳng thừng tuyên bố:
Giàu sang phú quý không màng
Chỉ yêu son sắc một nàng Mai Hoa!...
Trong số những người đam mê cây mai cổ ở Đại Lộc phải kể đến một vài nhân vật có tên tuổi. Anh Lê Me (Khu 5, Ái Nghĩa) là người đã từng đeo đuổi rất sớm cây hoa mai, từng khai phá hàng chục héc ta đất núi đồi ở vùng giáp ranh Hải Vân để làm trang trại hoa mai, nhưng tiếc thay, do nhiều trắc trở, mộng không thành. Sau đó anh quyết chí làm lại, chuyển sang sưu tầm cây mai cổ. Đến nay, sau quá trình gầy dựng, trong vườn anh đã có đến vài mươi cây mai cổ được chăm sóc cẩn thận và thật sự là những tác phẩm có giá trị. Anh Nguyễn Chín (Mỹ Liên, Đại Nghĩa) sau vài năm tích cóp, sưu tầm hiện nay có trong “tay” đến gần 100 gốc; Anh Thông (Đại Hiệp) khoảng 70 gốc. Còn danh sách các “sở hữu chủ” ở cấp vài chục gốc thì có đến hàng vài chục người. Ngoài ra, còn có một vài người theo đuổi cây mai cổ từ rất sớm, từng “qua tay” họ vài trăm cây, nhưng khốn nỗi vì cảnh “vợ yếu, con nhiều” mà họ đã không thể giữ lại cho mình những tác phẩm quý giá, máu thịt đó. Nhưng tấm lòng và nỗi đam mê của họ thì không hề thua kém bất cứ một ai...
Như vậy bằng một con tính đơn giản, ít nhất ở Đại Lộc hiện nay con số cây mai cổ đang hiện diện là không dưới ba, bốn trăm cây, mà mỗi cây đều là một kỳ tích, thể hiện tất cả những niềm đam mê, tâm huyết mà chủ nhân của nó đã dày công vun đắp và kiến tạo. Đó cũng là kết quả tất yếu của một quá trình dịch chuyển đầy ngoạn mục đã và đang âm thầm diễn ra: Cây mai cổ từ khắp nơi dần dần được đưa về Đại Lộc, để hợp thành cái nghĩa tương phùng Cổ Mai Hoa Đại Lộc!
Để có được khối giá trị khó có thể tính bằng tiền đó, giới chơi cây mai cổ ở Đại Lộc đã phải bỏ rất nhiều công sức sưu tầm. Nói không ngoa, trừ những ngày bão lũ, bất cứ thời điểm nào, cũng có một vài người lặn lội khắp hang cùng ngõ hẽm, trên rừng, dưới xuôi, cả trong và ngoài tỉnh để truy tìm Cổ Mai Hoa. Và cũng từng xảy ra không ít chuyện bi hài cười ra nước mắt. Tôi còn nhớ, cách đây không lâu, trong giới chơi cây rỉ tai nhau một tin rất “giật gân” là có một cây mai cổ rất lớn mà chưa biết ở đâu. Lớn đến nỗi cái bộng ở gốc cây được trẻ con... chui vào để chơi trò trốn kiếm rồi ngũ quên trong đó(?). Nhưng câu chuyện kỳ lạ, khó tin đó chỉ có thể làm mê hoặc những kẻ chuyên truy tìm Cổ Mai Hoa, những người vốn được cho là có “tâm thái bất thường” mà thôi. Không ai bảo ai, rất nhiều người bí mật đi tìm, như kiếm tìm một cơ may kiểu “ngậm ngãi tìm trầm” vậy. Cũng như họ, lần đó, tôi cũng bí mật cùng vài anh em lên đường đi tìm cây mà thông tin chỉ có được là mỗi cái tên của ông chủ (đó là ông Lê Ngọc T.)!
Một buổi chiều, sau một hành trình rất đỗi gian nan, cuối cùng điều may mắn cũng đã đến khi chúng tôi tìm được đến nhà đúng người có tên như mình muốn, ở ngay trên đất ... Đại Lộc. Đó là một người đàn ông khoảng ngoài sáu mươi, thần sắc hồng hào. Khi được xác nhận đúng tên ông, sau vài câu xã giao, chúng tôi hỏi: “Nghe người ta nói bác có cây mai cổ lớn lắm?”, Ông bình thản xác nhận là “Ừ! có. Nhưng mà răng?”. Quanh co một hồi, ông dẫn chúng tôi ra vườn, chỉ vào một khoảng trống, ông bảo: “Đây nó đây!”. Nhưng chúng tôi chẳng thấy gì cả! Trong lúc chúng tôi còn ngơ ngác không hiểu gì thì ông gằn lại với bộ mặt rất bí hiểm: “Thì đây, chứ còn đâu nữa!”. Sau phút định thần chúng tôi thấy đó chỉ là ... một hố đất rất sâu và đã cũ (?).
Thì ra, cây mai huyền thoại đó từng tồn tại nhưng nó đã chết từ lâu. Cái chết của cây gây nên cho ông một nỗi đau buồn vô cùng tận, đến nỗi ông đã cho người ta đào cả gốc rễ đem đi mất để chóng nguôi ngoai. Nhưng rồi vẫn không yên, nỗi nhớ cây đã khiến ông cố tình giữ lại cái hố đất sâu do cây để lại làm kỷ niệm... Theo lời ông, thời gian gần đây không biết lý do gì mà rất nhiều người lạ đến hỏi ông về cây mai cổ đó...
Còn rất nhiều câu chuyện ly kỳ, bao hàm đủ cả hỉ - nộ - ái - ố, lắm khi đầy nước mắt về cây, về người mà trong giới Cổ Mai Hoa Đại Lộc gặp nhau có tán mãi cũng không bao giờ hết... 

Và hình như “trời cũng có mắt”, công sức bỏ ra đó đã được đến đáp. Nhiều cây mai rất quý được phát hiện và mang về Đại Lộc, khiến không ít người trong giới chơi cây phải ghen tỵ. Trong đó phải kể đến một vài cây có “tên tuổi” số má hẳn hoi, với những câu chuyện ly kỳ xung quanh nó. Như cây mai có tên “Hồn Việt” của anh TH. mang về từ Điện Phương, Điện Bàn, có tuổi hơn 100 năm, dáng thế thanh thoát, gốc lớn hình chữ S, thoạt trông như bản đồ Việt Nam, cây “Ngọc cốt, Thiên chân” của anh Lê Me đem từ Tam Dân, Phú Ninh về, có kích thước to lớn chưa từng thấy, toát lên một cảm giác hùng vĩ đến rợn người v.v...
“Mã tầm mã, ngưu tầm ngưu”, quý nhau chút tình, những người có đồng sở đắc sưu tầm và chơi cây mai cổ ở Đại Lộc đã tìm đến nhau, gắn kết để cùng chia xẻ những niềm vui, những nỗi đam mê mà nhiều khi nói ra người ngoài dễ cho là ... thần kinh có vấn đề. Họ đã tự xây dựng cho mình một website riêng để chia xẻ thông tin cả với những người chơi cây trên khắp mọi miền đất nước (www.quangcaosanpham.com/members/comaihoadailoc và comaihoadailoc.blogtiengviet.net ) .
 Không chỉ quan tâm đến cây mai, các “môn đồ” của Cổ Mai Hoa ở Đại Lộc còn thể hiện nỗi đam mê của mình sang nhiều loại hình nghệ thuật khác. Họ sưu tầm cả các tác phẩm thuộc lĩnh vực thơ văn, hội hoạ, gốm sứ, đá cảnh v.v...về cây mai, qua đó một vài cá nhân cũng đã sở hữu được vài tác phẩm quý. Ấn tượng nhất là chiếc đĩa sứ cổ có tên Mai Hạc, do anh Phạm văn Bằng (Khu Mới, thị trấn Ái Nghĩa) sưu tầm được. Đây là chiếc đĩa gốm sứ cổ thuộc đời Thanh (Trung Quốc). Trong đó in hình con chim hạc, cây mai cổ và hai câu thơ lục bát của Đại thi hào Nguyễn Du:
Ngêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ, Hạc là người quen”.
Theo nghệ nhân Huỳnh Văn Thới, TP Hồ Chí Minh (trong Kỹ thuật trồng và ghép mai, NXB Trẻ, 1995), đây là hai câu thơ do Nguyễn Du sáng tác vào năm Quý Dậu - 1813 khi ông là Chánh Sứ sang Trung Quốc, đã đi thăm một xưởng sản xuất đồ sứ. Biết quan Chánh Sứ An Nam là Đại thi hào nỗi tiếng, tinh thông văn chữ, chủ xưởng đồ gốm sứ Trung Quốc đã xin thơ của ông để đề vào sản phẩm. Thế là Nguyễn Du đã viết nên hai câu thơ nỗi tiếng này bằng chữ nôm và các nghệ nhân Trung Hoa đã chép lại. Do vậy, chiếc đĩa có một ý nghĩa rất lớn về lịch sử, văn hoá, đồng thời nó thật sự là một báu vật đối với các “môn đồ” của Cổ Mai Hoa.


Triển vọng và những nỗi lòng về Cổ Mai Hoa ở Đại Lộc ...
Với tình yêu và lòng đam mê cháy bỏng của những nghệ nhân Cổ Mai Hoa ở Đại Lộc,  chuyện về họ, về cây có lẽ khó có hồi kết. Và tất cả những gì thể hiện trên đây - là người mới thâm nhập một cách rất nghiệp dư vào nghệ thuật Cổ Mai Hoa - tác giả chỉ mong được chuyển tải một phần nhỏ về mặt tinh thần của nghệ thuật chơi cây mà thôi. Còn về giá trị và tiềm năng kinh tế mà cây hoa mai cổ có thể đem lại chưa phải là đối tượng khai thác trong phạm vi bài viết này, cho dù ở Đại Lộc từng có không ít những cây mai cổ được mua về với giá vài triệu mà chỉ sau vài nhát búa điệu nghệ, hoặc đôi lời bình sắc sảo của nghệ nhân thì lập tức đã có những “đại gia” từ Hội An, Đà Nẵng về ngã giá đến bốn, năm chục triệu. Đó là sự thật rất đáng lưu tâm.
Nhưng mộng ước của anh em chơi cây mai cổ ở Đại Lộc thì còn rất cao xa mà không quá xa vời. Họ bảo rằng, cũng đi từ cái đơn giản, nhỏ bé, ít ỏi, nhưng sau quá trình xây dựng,  những sản phẩm như “Đào Nhật tân”, “Hồng Đà lạt”, “Bưởi Năm roi”,... đã trở thành những thương hiệu nỗi tiếng! Vậy thì  “Cổ Mai Hoa Đại Lộc”, với những gì đang được bắt đầu một cách tuyệt diệu, thì tại sao không?...
Để kết thúc bài viết này xin được ghi lại hai câu thơ như một sự xẻ chia và cảm kích với những nỗi lòng đau đáu và sự đam mê đến cùng cực của những người chơi cây hoa mai cổ ở Đại Lộc:
“Ngày phải lo toan Tiền - Cơm - Áo,
Đêm thì mộng mị Cổ Mai Hoa...”
Đại Lộc, Cuối tháng 11/2007
Lê Thạnh

    

Thứ Sáu, 7 tháng 9, 2007

LÀNG CỔ ĐƯỜNG LÂM


LÀNG CỔ ĐƯỜNG LÂM
 Trải qua bao thăng trầm, Đường Lâm vẫn lưu giữ hình ảnh của một ngôi làng cổ Việt Nam với cổng làng, cây đa, giếng nước, ao sen...
 
Cổng làng Đường Lâm
 
Qua hai cánh cổng làng đã bạc màu sương gió, nằm dưới bóng một cây đa khổng lồ đã 300 năm tuổi, là những ngõ xóm, đường làng, mái ngói, tường đá ong và các công trình kiến trúc cổ xưa trong một không gian sinh hoạt cộng đồng mang đậm bản sắc của một làng thuần nông và dấu ấn của một nền văn minh lúa nước.
 
 
 
Người phương xa đến đây dễ nhận ra nét đặc sắc của làng cổ Đường Lâm, đó chính là những ngôi nhà gỗ với tường xây bằng đá ong, nằm trong các khuôn viên có tường bao cũng bằng đá ong và đường làng lát gạch nghiêng chạy giữa những bức tường ấy...
 
Đường Lâm có tới 956 ngôi nhà truyền thống trong đó các làng Đông Sàng, Mông Phụ và Cam Thịnh lần lượt có 441, 350 và 165 nhà. Có nhiều ngôi nhà được xây dựng từ năm 1649, 1703, 1850.... Căn nhà lâu đời nhất có tuổi thọ hơn 400 năm vẫn lưu giữ được bài văn cúng tế bằng chữ nho được viết bằng mực tàu trên một tấm ván.
 
 
 
Các chi tiết làm nên" linh hồn" của nhà cổ gồm có tường đá ong, cổng đá ong, lối đi lát gạch nghiêng, bậu cửa cao và gian thờ tổ tiên.
 
Cổng nhà hình quai giỏ, mềm mại về đường nét và vững chắc nhờ vật liệu đá ong. Nhà quan lại thường có vòng cửa mặt hồ phù, phía trên đắp hình long, ly, quy, phượng hay lưỡng long chầu nguyệt. Mỗi ngôi nhà là một đồ gia bảo, là lịch sử, văn hoá và cũng là nơi thờ tự thiêng liêng của mỗi dòng họ.
 
Những khuôn cửa bức bàn già nua, khi thường kẽo kẹt khép lại thế giới riêng, mỗi khi có việc lại được ngả ra làm bàn.
 
 
 
Các ngôi nhà trong làng đều có kiểu nội tự - ngoại khách, sân nhà thấp hơn mặt đường, vào những ngày mưa, nước từ ngoài dồn vào trong sân (tụ thủy sinh tài) rồi mới chảy thoát ra đường cống.
 
Đường ngõ trong làng đều là ngõ cụt để đề phòng trộm cướp; nhà nào cũng có cửa bí mật và đường tắt ra sân đình. Do khai thác tốt độ dốc, lại không có nhiều nghề phụ nên đường đi lối lại ở Đường Lâm rất sạch sẽ và phong quang.
 
 
 
Đường làng...
 
Nét riêng nhất chính là kiến trúc làng: những ngả đường hình xương cá gồm một trục đường chính với rất nhiều ngõ nhỏ thông với nhau, người làng đi đằng nào cũng về đến nhà và trộm chạy đằng nào rồi cũng bị bắt (vì khi có động, tráng đinh cả làng ùa ra, ngay lập tức gặp nhau ở một chỗ).
 
Một lần đi trên con đường làng vắng vẻ, hai bên có những dãy tường đá ong loang lổ vết rêu và các cổng nhà khép kín, bầu không khí nơi đây lại có chút gì tư lự và mơ hồ, để khi về sao nhung nhớ quá cái màu thổ hoàng của tường đá ong rực lên trong nắng chiều xứ Đoài..
 
.
 
Cổng đình làng Mông Phụ
 
Đá ong là vật liệu có sẵn tại địa phương do quá trình latêrit hoá tạo nên. Ngày xưa Quang Dũng viết: "Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ...". Quốc Oai, Thạch Thất cũng có rất nhiều đá ong. Ở đồng bằng sông Hồng, các nhà khoa học đã chứng minh rằng có hai vỉa đá ong lớn nằm ở Hà Tây và Bắc Ninh, mà Đường Lâm chỉ là một góc rất bé của một vỉa. Đá ong khi chưa thành khuôn gạch thì mềm dẻo nhưng đẽo lên rồi càng để càng cứng.
 
 
 
Không thể xoá được hình ảnh của làng chừng nào từng viên đá ong còn được dựng nhà. Từ xưa đến nay, đá ong ở đây vẫn là thứ sẵn có nhưng nó lại là vật liệu quý để xây dựng nên các công trình trong làng. Đặc tính của loại đá này là càng để lâu càng tốt, khi xây không tốn nhiều công trát, song vẫn đảm bảo cho khối tường dày, đủ làm mát nhà khi trời nóng, đủ sưởi ấm nhà khi trời lạnh.
 
Người làng Mông Phụ kể rằng: "Từ thời cụ tổ đã có đá ong, loại đá này phải đào từ dưới lòng đất lên. Mỗi lần đào rất khó vì mỗi viên thường to khoảng 15-40 cm". Năm tháng càng khiến cho đá săn chắc, cứng cáp cũng như giúp con người Đường Lâm càng thêm tin yêu vào nơi mình đang trải qua cuộc sống bình dị.
 
 
 
Người dân Đường Lâm rất ý thức về giá trị văn hóa của làng mình. Họ biết rõ vẻ đẹp trầm mặc cổ kính của những ngôi nhà cổ đang thu hút khách thập phương tìm về để nôn nao cùng... quá khứ.
 
Đến Đường Lâm, ta ngỡ ngàng trước một làng cổ còn lưu giữ những sắc màu thời gian với một thế giới ẩn chứa nhiều điều bí ẩn dần được hé mở. Giữa vòng xoáy hối hả của thời hiện đại bên ngoài, Đường Lâm lặng lẽ khép mình vào một góc tưởng chừng bị quên lãng. Sẽ còn có bao nhiêu khách lữ hành dừng chân nơi đây để cảm nhận và hòa mình vào cái không khí u tịch của ngôi làng có mấy trăm năm tuổi?

CÂY ĐA


Từ bao đời nay, mỗi người Việt đều coi mái đình, cây đa như một biểu tượng của làng quê truyền thống. Y' nghĩa biểu tượng đầu tiên của cây đa là sự trường tồn, sức sống dẻo dai. Không phải ngẫu nhiên mà những bậc cao niên, những người đã có nhiều thành tựu ở một lĩnh vực nào đó thường được đồng nghiệp và xã hội coi là "cây đa, cây đề", biểu tượng cho sức làm việc quên mình, dẻo dai, cho sự tích lũy kiến thức phong phú.



Cũng với ý nghĩa trường tồn ấy, cây đa xuất hiện trong ca dao như một nhân chứng của thời gian, chứng kiến những sự đổi thay của con người, của đất trời, đôi khi là cả một vòng đời người.
- Trǎm nǎm dầu lỗi hẹn hò
  Cây đa bến cũ con đò khác đưa.
- Cây đa cũ, bến đò xưa
  Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ
Hầu như làng quê truyền thống ở Bắc Bộ nào cũng có những cây đa cổ thụ thường ở đầu làng, cuối làng, giữa làng và ở bên cạnh các di tích. Cuộc sống sinh hoạt của làng diễn ra sôi động xung quanh gốc đa. Với người dân quê, gốc đa là nơi bình đẳng nhất, không có sự phân biệt ngôi thứ. 
                    Không tiền ngồi gốc cây đa
                    Có tiền thì hãy lân la vào hàng
Cây đa do Ngô quyền trồng năm 938

Gốc đa là nơi trẻ nhỏ nô đùa, thỏa thích nhặt búp, hái lá, chơi những trò chơi dân gian. Gốc đa cũng là nơi dân làng ngồi nghỉ chân sau những giờ lao động mệt nhọc, trước khi về làng hoặc đi khỏi làng. Gốc đa còn là nơi hẹn hò của trai gái:
Em đang dệt vải quay tơ
Bỗng đâu có khách đưa thơ tới nhà
Hẹn giờ ra gốc cây đa
Phượng hoàng chả thấy thấy gà buồn sao.
Không chỉ có vậy, cây đa làng Việt còn là biểu tượng tâm linh của con người. Trong làng, cây đa có mặt ở nhiều vị trí khác nhau nhưng hầu như nó không vắng bóng ở các di tích, đặc biệt là đình chùa. Tục ngữ có câu:
                - "Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề"
               - "Cây thị có ma, cây đa có thần"
Cây đa xanh tốt tỏa bóng làm cho các di tích trở nên linh thiêng hơn, con người khi bước đến di tích cũng cảm thấy được thư thái hòa đồng hơn với thiên nhiên. Cây đa được coi là nơi ngự trị của các thần linh dân dã và các linh hồn bơ vơ. Cây đa nào càng già cỗi, càng xù xì, rậm rạp thì càng gắn bó với thần linh. Gốc đa ở các di tích thường được dân chúng thắp hương chung để tỏ lòng tôn kính các vị thần linh dân dã hoặc cầu cho những linh hồn bơ vơ về nương nhờ lộc Phật không đi lang thang quấy nhiễu dân làng. 

Như vậy, cây đa luôn là biểu tượng đẹp với hầu hết các ý nghĩa chuẩn mực của biểu tượng: vừa hiện hữu, vừa tiềm ẩn, huyền bí, vừa mang hơi thở cuộc sống, vừa mang đậm yếu tố tâm linh. Phải chǎng chính sự kết hợp này đã tạo nên biểu tượng cây đa có sức sống bền lâu trong vǎn học dân gian, vǎn thơ bác học và trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam.

                                                      *Thu Hương (Sắc màu văn hoá)